Loại bỏ số nạn nhân của việc lái xe nguy hiểm, bao gồm cả việc lái xe khi say rượu. Để đạt được điều này, việc sử dụng công nghệ là điều cần thiết.
Đặc biệt trong những năm gần đây, với sự tiến bộ của Internet và công nghệ kỹ thuật số, việc quản lý vận hành và lái xe an toàn, như kiểm tra nồng độ cồn và hệ thống điểm danh, đang nhanh chóng trở thành kỹ thuật số và dựa trên CNTT-TT.
Chúng tôi tại Tokai Electronics là công ty chuyên về công nghệ ngăn ngừa lái xe khi say rượu trong số các công nghệ ngăn ngừa tai nạn.
Trước khi máy đo nồng độ hơi thở được phát minh, cảnh sát phải đưa ra phán đoán dựa trên những yếu tố như mùi, nước da, dáng đi và hành vi.


Tại Hoa Kỳ, nơi các quy định về lái xe khi say rượu được đưa ra cùng với sự phát triển của ô tô, mức tiêu thụ rượu ban đầu được đo bằng máu và nước tiểu.
Năm 1927, Tiến sĩ Emil Borgen đã tiến hành một thí nghiệm trong đó ông đặt axit sulfuric và kali dicromat vào một túi khí có kích thước bằng một quả bóng đá (được gọi là quả bóng bay) và nghiên cứu mối tương quan giữa máu và hơi thở.
Khi thổi vào túi thở ra, màu sắc thay đổi tùy theo nồng độ cồn trong hơi thở làm tăng nồng độ. Tuy nhiên, ở trạng thái này, nó vẫn chưa được đưa vào sử dụng thực tế trên đường.
“CHẨN ĐOÁN BỆNH SUYỀN MỘT NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG VỀ ĐỘC TÍNH RƯỢU CẤP TÍNH”
Báo cáo này do Tiến sĩ Borgen xuất bản năm 1927, cung cấp cái nhìn thoáng qua về tình trạng của xã hội xe hơi, các quy định về lái xe khi say rượu và công nghệ kiểm tra nồng độ cồn vào thời điểm đó. Theo kết quả của bài báo này, nồng độ cồn trong hơi thở đã được công nhận là một chỉ số tương đương với nồng độ cồn trong máu.
Đây được cho là sự khởi đầu cho lịch sử đo nồng độ cồn trong hơi thở.

Tiếp bước Tiến sĩ Borgen, cảnh sát ở mọi tiểu bang đều bắt đầu nghiên cứu công nghệ phát hiện nồng độ cồn. Năm 1936, Tiến sĩ Harger, một nhà sinh hóa tại Đại học Indiana, đã phát triển và được cấp bằng sáng chế cho một thiết bị có tên là "Drunk-O-Meter".
Sử dụng một quả bóng bay để người lái xe thổi vào, đây là máy đo nồng độ cồn đầu tiên có thể đo nồng độ cồn của một người.
Nó được coi là thế hệ máy đo nồng độ cồn đầu tiên.
Tiến sĩ Hargar cũng đóng góp vào việc soạn thảo một dự luật mẫu hợp pháp hóa việc sử dụng bằng chứng xét nghiệm hóa học về tình trạng say xỉn và đặt ra giới hạn nồng độ cồn cho người lái xe.

Giáo sư Borkenstein đã cải tiến máy đo nồng độ cồn Drunk-O-Meter của Tiến sĩ Harger và phát minh ra máy đo nồng độ cồn đầu tiên thực tế để đo nồng độ cồn trong hơi thở. Mặc dù máy đo nồng độ cồn Drunk-O-Meter trông giống như một phòng thí nghiệm hóa học và cần được hiệu chuẩn lại mỗi khi di chuyển, thiết bị của Giáo sư Borkenstein lại rất dễ di chuyển. Sau đó, vào đầu những năm 1960, nó được thay thế bằng các máy đo nồng độ cồn được thiết kế hợp lý hơn, không mang dáng vẻ khoa học như trong phòng thí nghiệm, dẫn đến việc sử dụng rộng rãi các thiết bị phát hiện nồng độ cồn ven đường.
Máy đo nồng độ cồn của Giáo sư Borkenstein đã được đăng ký nhãn hiệu "Breathalyzer" và trở nên phổ biến rộng rãi. Phân tích điện tử bắt đầu được sử dụng cho thiết bị, biến nó thành máy đo nồng độ cồn thế hệ thứ hai và là nguồn gốc không thể tranh cãi của máy đo nồng độ cồn sau này.
Máy đo nồng độ hơi thở do Borkenstein tạo ra đã phát triển thành Model 900, 900A, 900B và Model 2000, được điều khiển bằng bộ vi xử lý.
Từ năm 1955 đến năm 1999, hơn 30.000 máy đo nồng độ hơi thở Borkenstein thuộc nhiều loại khác nhau đã được sản xuất và bán ra. Nó cũng đã được sử dụng trong nhiều năm ở Hoa Kỳ, Canada và Úc và vẫn là máy đo hơi thở tiêu chuẩn được cảnh sát và các cơ quan chính phủ khác sử dụng.
Năm 1974, NHTSA Hoa Kỳ sau đó đã phát triển và công bố hệ thống chứng nhận cũng như danh sách sản phẩm được phê duyệt cho máy đo nồng độ hơi thở.


Kể từ máy đo hơi thở của Borkenstein, những người kế nhiệm đã cải tiến thiết bị và công nghệ này. Ngày nay, nó đang được sử dụng trong nhiều tình huống hơn, bao gồm cả người lái xe cá nhân, doanh nghiệp và chuyên nghiệp. Tùy thuộc vào mục đích, các công nghệ cảm biến và phân tích khác nhau cũng tăng lên, chẳng hạn như phương pháp phân tích hồng ngoại, cảm biến pin nhiên liệu (điện hóa) và cảm biến khí bán dẫn.
Những tiến bộ trong công nghệ cồn trong hơi thở đã dẫn đến việc nó được sử dụng như một thiết bị khóa rượu vào cuối những năm 1970.
Những tiến bộ trong công nghệ phát hiện nồng độ cồn trong hơi thở đã có lịch sử đóng góp to lớn cho xã hội giao thông bằng cách cung cấp một chỉ số khách quan có thể loại bỏ các trường hợp lái xe khi say rượu và sự giám sát bất hợp pháp của cảnh sát trước đây bị bỏ qua. Nhiều nhà khoa học, nhà sinh hóa và nhà nghiên cứu đã đóng góp vào lịch sử này.
Tiến sĩ Harger và Tiến sĩ Borkenstein không chỉ sáng chế ra công nghệ phân tích nồng độ cồn trong hơi thở mà còn có những đóng góp đáng kể cho tình trạng pháp lý của nồng độ cồn trong hơi thở, chẳng hạn như vận động chính phủ tăng cường các quy định về lái xe khi say rượu.
Đáng chú ý, Tiến sĩ Borkenstein cũng là người sáng lập Giải thưởng Borkenstein, một giải thưởng nghiên cứu học thuật hiện do Hiệp hội Kiểm tra Hóa học Quốc tế (IACT) trao tặng.
Theo cách này, những đóng góp của các nhà nghiên cứu sinh hóa và sự phát triển của công nghệ phát hiện nồng độ cồn đã tăng lên theo thời gian, và giờ đây các hoạt động phòng chống lái xe khi say rượu đã trở thành một lĩnh vực gần như có thể được gọi là một "ngành công nghiệp", với các ngành công nghiệp như máy đo nồng độ cồn và thiết bị kiểm tra nồng độ cồn liên động, tiếp tục góp phần giảm thiểu tử vong do tai nạn giao thông.
Giải thưởng Borkenstein
Ghi nhận cá nhân đã có những đóng góp xuất sắc trong suốt cuộc đời phục vụ trong lĩnh vực rượu/ma túy liên quan đến an toàn giao thông và vận tải phù hợp với lý tưởng và thành tích của Tiến sĩ Robert F. Borkenstein.
https://www.iactonline.org/page-1699019

Thông thường, rượu khi vào cơ thể sẽ được hấp thụ vào máu trong vòng khoảng 30 phút. Lý tưởng nhất là cần lấy mẫu máu để đo. Tuy nhiên, có một định luật chuyển đổi gián tiếp nồng độ, cho phép chúng ta đo nồng độ cồn từ mẫu hơi thở mà không cần lấy mẫu máu. Định luật này được gọi là Định luật Henry.
Định luật Henry
Định luật Henry là một định luật tổng quát về hóa lý. Nói một cách đơn giản, đây là một lý thuyết cơ bản phát biểu rằng khi một chất hòa tan trong chất lỏng có mặt trong không khí (hơi), sẽ có một tỷ lệ thuận không đổi, và khi một chất trong không khí (hơi) hòa tan trong chất lỏng, sẽ có một tỷ lệ thuận không đổi. Định luật này dự đoán rằng khi một chất dễ bay hơi như rượu được hòa tan trong dung môi (như máu), nồng độ cồn trong khí (tức là hơi thở) sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ cồn trong cơ thể.
Từ những ngày đầu của phương pháp kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở, Định luật Henry đã được sử dụng để chuyển đổi nồng độ máu và hơi thở theo công thức chuyển đổi nồng độ sau:
"Trọng lượng cồn trong 1 lít máu chia cho 2100 bằng trọng lượng cồn trong 1 lít hơi thở."
Hiện nay, hầu hết các máy đo nồng độ cồn dựa trên phương pháp kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở đều sử dụng định luật này. Công ty chúng tôi cũng sử dụng định luật này để chuyển đổi. Tuy nhiên, định luật này chỉ mang tính chất ước lượng, không phải là giá trị tuyệt đối. Trên thực tế, giá trị đo lường thay đổi do các yếu tố như thông khí phổi và mạch tim. Ngoài ra, các biến thiên do các yếu tố bên ngoài như độ nhạy của cảm biến và môi trường vận hành thường phải được tính đến.
Hiện nay, có bốn loại phương pháp cảm biến chính: phương pháp bán dẫn, phương pháp pin nhiên liệu, phương pháp hấp thụ hồng ngoại không khuếch tán (NDIR) và phương pháp phản ứng hóa học.
Chúng tôi xin giới thiệu một công nghệ cảm biến cụ thể về nồng độ cồn trong hơi thở.
| Phương pháp cảm biến | phương pháp bán dẫn | Phương pháp pin nhiên liệu | Phương pháp hút hồng ngoại không khuếch tán(NDIR) | phương pháp phản ứng hóa học |
|---|---|---|---|---|
| Loại lựa chọn khí |
△ |
◎ |
〇 |
△ |
| sự chính xác |
△ Sự xuống cấp theo thời gian |
◎ |
〇 độ ẩm, nhiệt độ, áp suất khí quyển |
△ |
| tuổi thọ |
〇 |
△ 2 năm đến 5 năm |
◎ |
× dùng một lần |
| sự đáp ứng |
◎ Khoảng 5 giây |
△ thời gian cháy lâu |
〇 |
× |
| giá |
◎ |
△ Đắt tiền/vật tư tiêu hao |
× thiết bị quang học chính xác |
× chi phí vận hành |